Lịch sử chiến đấu Xe_tăng_Tiger_I

Tính năng của pháo và giáp

Lính Đức xem xét một vết đạn không xuyên thủng được vỏ giáp của Tiger.

Giáp trước của Tiger I dày 100mm, giáp trước tháp pháo dày 120mm, giáp sườn tháp pháo dày khoảng 80-82mm. Giáp của Tiger I được đặt thẳng đứng ở tất cả các vị trí, nên chiếc xe trông giống như một hình hộp chữ nhật. Lớp giáp của Tiger đủ sức chống chịu tốt với hỏa lực của các loại xe tăng hạng trung vào năm 1943 như T-34-76 (phiên bản mang pháo 76,2mm) hoặc M4 Sherman (phiên bản mang pháo 75mm).

Những chiếc Tiger có khả năng bắn xuyên giáp trước của một chiếc M4 Sherman của Mỹ trong khoảng cách 1.800 và 2.100 mét[16], xe tăng Churchill IV của Anh trong khoảng cách 1.100 và 1.700 mét, xe tăng T-34 của Liên Xô trong khoảng cách 1.000 và 1.400 mét, và chiếc IS-2 của Liên Xô trong khoảng cách chỉ 100 tới 300 mét.[16] Xe tăng T-34 Liên Xô được trang bị pháo 76,2 mm không thể bắn xuyên giáp trước của Tiger ở bất kỳ khoảng cách nào[cần dẫn nguồn], nhưng có thể bắn xuyên hông ở xấp xỉ 500 m bằng đạn BR-350P APCR.[cần dẫn nguồn] Ở góc lệch 30 độ, pháo 85mm của T-34-85 có thể bắn xuyên giáp trước của Tiger trong khoảng 200 và 500m,[16], nếu đứng thẳng góc thì pháo 85mm có thể xuyên giáp trước của Tiger ở khoảng cách 1.000 mét, xuyên được giáp hông ở khoảng cách 1.500 mét. Pháo 122mm của những chiếc xe tăng hạng nặng IS-2 có thể bắn xuyên giáp trước trong khoảng cách 500 và 1.500 mét[16], và có thể xuyên lớp giáp hông của Tiger trong khoảng cách 2.500 m.

Từ góc tấn công 30 độ, pháo 75mm của chiếc M4 Sherman không thể bắn xuyên giáp trước của Tiger ở bất kỳ khoảng cách nào, và cần ở trong khoảng cách 100 m để có thể bắn xuyên lớp vỏ trên của siêu cấu trúc dày 80 mm.[16] Pháo 17-pounder của Anh sử dụng trên chiếc Sherman Firefly, bắn loại đạn APCBC thông thường, có thể xuyên thủng lớp giáp trước ở khoảng cách lên tới 1.000 m. Súng 76 mm của Mỹ, nếu bắn đạn APCBC M62, chỉ có thể xuyên lớp giáp bên hông của Tiger trong khoảng cách chỉ hơn 500 m, và có thể xuyên lớp vỏ trên siêu cấu trúc ở khoảng cách 200 mét. Sử dụng đạn HVAP, vốn luôn thiếu và ban đầu được sản xuất cho các pháo chống tăng, có thể bắn xuyên thủng lớp giáp trước nhưng khoảng cách chỉ hơn 500 m.

Khi khoảng cách chiến đấu giảm, mọi súng có khả năng xuyên giáp cao hơn (ngoại trừ đạn HEAT, vốn hiếm có trong Thế chiến II). Hoả lực xuyên giáp mạnh của Tiger I đồng nghĩa với việc nó có thể tiêu diệt nhiều đối thủ ở những khoảng cách chúng không thể đáp trả. Trên chiến trường trống trải, đây là một lợi thế chiến thuật lớn. Những chiếc xe tăng đối thủ thường buộc phải cố thực hiện một cuộc tấn công bên sườn để tiêu diệt một chiếc Tiger. Tiger I duy trì ưu thế này cho đến đầu năm 1944, khi nó bị hạ bệ bởi xe tăng IS-2 của Liên Xô.

Những hoạt động đầu tiên

Một chiếc Tiger I được triển khai để hỗ trợ Quân đoàn châu Phi hoạt động tại Tunisia, tháng 1 năm 1943.

Chiếc Tiger lần đầu tiên được sử dụng chiến đấu ngày 23 tháng 9 năm 1942 gần Leningrad. Dưới áp lực từ Hitler, xe tăng này được đưa vào hoạt động sớm hơn nhiều tháng so với kế hoạch. Nhiều model đầu tiên chứng minh không đáng tin cậy về máy móc; trong lần tham chiến đầu tiên này, nhiều chiếc đã hư hỏng. Những chiếc khác bị loại khỏi vòng chiến bởi các khẩu súng chống tăng Liên Xô. Một chiếc bị bắt giữ hầu như trong tình trạng nguyên vẹn, cho phép người Liên Xô nghiên cứu và chuẩn bị đối phó.

Trong những hoạt động đầu tiên của Tiger ở Bắc Phi, nó có khả năng áp chế những chiếc xe tăng của Đồng Minh trên những vùng đất rộng. Tuy nhiên, những hư hỏng thường xuyên về máy móc đồng nghĩa với việc hiếm khi có hơn vài chiếc Tiger tham chiến. Theo kinh nghiệm từng được rút ra ở Leningrad, ít nhất một chiếc Tiger đã bị hạ bởi các súng chống tăng six-pounder của Anh.

Tính cơ động và hoả lực

Một chiếc Tiger I của Waffen-SS tại Pháp.

Trọng lượng quá nặng của chiếc xe hạn chế số cây cầu Tiger có thể đi qua và khả năng đâm xuyên qua các toà nhà, vốn có thể có tầng hầm, có nguy cơ làm tăng bị kẹt. Một điểm yếu khác là tốc độ di chuyển chậm của tháp pháo thuỷ lực. Tháp pháo cũng có thể được xoay chuyển bằng tay, nhưng cách này hiếm khi được sử dụng, ngoại trừ cho những chỉnh sửa rất nhỏ.

Những chiếc Tiger ban đầu có tốc độ tối đa khoảng 45 km/h trên địa hình tối ưu. Tốc độ này không được khuyến khích trong hoạt động thông thường và càng không được áp dụng trong huấn luyện. Kíp lái được ra lệnh không để vượt quá tốc độ vòng quay 2.600 rpm vì các vấn đề về độ tin cậy với những động cơ Maybach thời kỳ đầu với tốc độ vòng quay tối đa 3000. Để giải quyết điều này, tốc độ tối đa của Tiger bị giảm xuống còn khoảng 38 km/h bằng việc lắp đặt một bộ phận kiểm soát động cơ, giảm số vòng quay của động cơ Maybach HL 230 xuống 2600 rpm (các động cơ HL 210 được dùng trên những model ban đầu). Dù chậm hơn những chiếc xe tăng hạng trung thời kỳ đó, với tốc độ trung bình khoảng 45 km/h, xe tăng Tiger vẫn có tốc độ đáng khâm phục với một chiếc xe tăng có trọng lượng và kích thước như thế, nặng gần gấp đôi một chiếc M4 Sherman hay T-34.

Tiger đang được sửa động cơ

Chiếc Tiger luôn gặp vấn đề về độ tin cậy trong suốt thời gian hoạt động của nó; các đơn vị Tiger thường tham chiến không đủ sức mạnh vì các vấn đề hỏng hóc. Hiếm khi các đơn vị Tiger hoàn thành một cuộc hành quân trên đường mà không mất một số chiếc vì hư hỏng. Chiếc xe tăng này cũng có bán kính chiến đấu kém (khoảng cách một phương tiện chiến đấu có thể đi và quay trở lại, trong các điều kiện chiến đấu thông thường, mà không cần tiếp thêm nhiên liệu). Vì bánh xích rất rộng, Tiger có áp lực trên mặt đất thấp hơn nhiều loại xe tăng nhỏ hơn khác, ngoại trừ duy nhất là chiếc T-34 của Liên Xô.

Nhìn chung, Tiger I đòi hỏi một chế độ bảo trì cao, và dễ bị trục trặc nếu các bảo dưỡng cơ khí định kỳ không được thực hiện. Cộng với trọng lượng lớn của Tiger I, khi nó bị hư hại hoặc bị hỏng hóc, lính Đức phải rất khó khăn để kéo xe về sửa chữa. Nhiều chiếc Tiger I đã bị phá hủy bởi chính tổ lái, khi việc sửa chữa hỏng hóc không thể thực hiện được do điều kiện chiến trường.

Tổ chức chiến thuật

Một chiếc Tiger I nguỵ trang ở vị trí phòng ngự tĩnh.

Những chiếc Tiger thường được sử dụng trong những tiểu đoàn tăng hạng nặng (Schwere-Panzer-Abteilung) nằm dưới quyền chỉ huy của quân đội. Những tiểu đoàn này có thể được triển khai tới những khu vực quan trọng, hoặc cho các chiến dịch đột phá hay, thường thấy hơn, để phòng ngự. Vài sư đoàn được ưa chuộng, như Grossdeutschland hay một số sư đoàn có số lượng xe ít của Waffen-SS có số tăng Tiger chưa đủ số đầu ngón tay.

Ban đầu chiếc Tiger được thiết kế như một vũ khí tấn công đột phá, nhưng tới khi chúng đi vào hoạt động, tình thế quân sự đã thay đổi nhiều, và chúng chủ yếu được dùng vào phòng ngự như các đơn vị pháo di động.[17] Không may thay, điều này cũng có nghĩa những chiếc Tiger thường phải di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác khiến chúng càng gặp các vấn đề kỹ thuật. Vì thế, hầu như không có thời điểm nào bất kỳ một đơn vị Tiger nào tham chiến với đầy đủ sức manh. Hơn nữa, chống lại những mẫu xe tăng Liên XôĐồng Minh phương Tây với số lượng sản xuất rất lớn, thậm chí tỷ lệ tiêu diệt 10:1 cũng là không đủ. Một số đơn vị Tiger thực tế đã vượt quá tỷ lệ tiêu diệt 10:1, gồm 13. Kompanie/Panzer-Regiment Großdeutschland (16.67:1), schwere SS-Panzer-Abteilung 103 (12.82:1) và schwere Panzer-Abteilung 502 (13.08:1). Những con số này phải được đặt so sánh với chi phí cơ hội của loại tăng Tiger đắt đỏ. Mỗi chiếc Tiger đắt gấp bốn lần chi phí sản xuất súng tấn công Sturmgeschütz III.

Một số trận đánh

Một chiếc Tiger I tại Sicilia năm 1943

Ngày 7 tháng 7 năm 1943, một chiếc Tiger duy nhất dưới quyền chỉ huy của SS-Oberscharführer Franz Staudegger thuộc Trung đội số 2, Đại đội Panzer số 13, Sư đoàn SS số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler đã tham chiến với một nhóm khoảng 50 chiếc T-34 quanh Psyolknee (khu vực phía nam của góc lồi Đức trong Trận Kursk). Staudegger sử dụng tất cả đạn dược của mình và tuyên bố tiêu diệt 22 xe tăng Liên Xô, trong khi số còn lại phải rút chạy. Vì chiến công này, ông được trao Huân chương chữ thập hiệp sĩ.[18]

Tên tuổi Tiger đặc biệt gắn liền với SS-Hauptsturmführer Michael Wittmann thuộc schwere SS-Panzerabteilung 101. Ông đã phục vụ từ những chức vụ thấp nhất, chỉ huy nhiều loại phương tiện và cuối cùng là một chiếc Tiger I. Trong Trận Villers-Bocage, Trung đội của ông đã tiêu diệt hơn hai tá phương tiện của Đồng Minh, gồm nhiều xe tăng.

Hơn 10 chỉ huy Tiger đã tuyên bố thành tích tiêu diệt hơn 100 phương tiện mỗi người, gồm Kurt Knispel với 168 chiếc, Walter Schroif với 161 chiếc, Otto Carius với 150+, Johannes Bölter với 139+, và Michael Wittmann với 138.[19]

Tiger I được cho là có tỷ lệ tiêu diệt 5.74 trên mỗi thiệt hại, với 9,850 xe tăng địch bị tiêu diệt với 1,715 Tiger mất. Điều quan trọng cần lưu ý rằng số Tiger I bị mất cao hơn con số chế tạo (1,347), bởi Wehrmacht tính tổn thất bao gồm cả những xe tăng bị hư hại nặng cần phải sửa chữa lớn.[20]